PHƯƠNG PHÁP SẢN XUẤT PHÂN BÓN HỮU CƠ VI SINH ĐỐI VỚI SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP.
Tuy nhiên, việc quá lạm dụng phân bón hoá
học trong sản xuất nông nghiệp đã dẫn tới rất nhiều diện tích đất canh tác trở nên
bạc màu, chai cứng và mất dần khả năng canh tác, những diện tích này ngày càng
lớn và rất cần thiết trả lại sự màu mỡ, độ phì nhiêu cho đất.
Mặt khác lượng phế phụ phẩm trong nông
nghiệp, phế thải của các nhà máy chế biến lớn, khi đem vào sử dụng một mặt giảm
thiểu ô nhiễm môi trường, tạo ra phân bón sử dụng bón trên các đối tượng cây trồng
vừa giảm chi phí sản xuất (giá thành rẻ hơn so với chi phí mua phân bón vi
sinh), vừa đem lại năng suất cao hơn từ 10 – 15%.
Bón phân không cân đối dẫn đến tình trạng
vừa thừa vừa thiếu dinh dưỡng, giảm độ phì, thay đổi tính chất vật lý, hoá học
và sinh học của đất. Hiện tượng xói mòn, rửa trôi ngày càng tăng.
Theo các kết quả nghiên cứu, cây trồng
chỉ hấp thu được 35 – 40% tổng lượng Nitơ, 50 – 60% tổng lượng Photpho và Kali
bón trên đồng ruộng. Lượng phân hoá học còn lại hoặc bị bốc hơi, rửa trôi hoặc
ngấm vào trong đất. Như vậy, hàng năm có một lượng phân bón hoá học rất lớn
thất thoát gây lãng phí rất lớn cho người nông dân. Mặt khác còn gây ô nhiễm
môi trường đất, nước và không khí và ảnh hưởng trực tiếp tới sức khoẻ con người
và các sinh vật khác.
Liều lượng phân đạm cao trong đất có thể
làm tăng hàm lượng nitrat trong nước uống, rau, nước hoa quả,.... và là nguyên
nhân gây bệnh xanh da, ung thư ở người.
Cũng
thông qua việc bón đạm, lân và các yếu tố dinh dưỡng khác sẽ tích luỹ
trong ao, hồ, sông ngòi....gây hiện tượng phú dưỡng nguồn nước. Ở những nơi đó,
rong rêu phát triển tranh chấp oxy với cá và các động vật thuỷ sinh khác, gây
tắc nghẽn dòng chảy. Khi chết đi chúng bị phân huỷ gây mùi hôi thối khó chịu ô
nhiễm cả nguồn nước và không khí.
Ngoài ra, phân bón hoá học có chứa nhiều
kim loại nặng đặc biệt là Cadmium (Cd) khi được bón vào đất, cây trồng sẽ sử
dụng và gây nên nguy cơ tích luỹ kim loại nặng trong nông sản.
Để khắc phục hiện trạng trên, các nhà
khoa học đã đề xuất giải pháp phát triển nền nông nghiệp bền vững và các chiến
lược an toàn dinh dưỡng cho đất và cây trồng đó là: Bảo đảm cung cấp đủ liều lượng
cần thiết các chất dinh dưỡng thiết yếu đúng lúc cây cần, theo tỷ lệ cân đối
giữa các chất trong phân bón phù hợp với yêu cầu từng loại cây trên các vùng đất
dưới điều kiện thời tiết, khí hậu khác nhau, phát triển hệ sinh thái đất, đất
là một thế giới sống, là nơi trú ngụ và sinh sống của hàng triệu vi sinh vật.
Điều đó có nghĩa là:
+ Bón phân cân đối bằng cách cung cấp đầy
đủ nguồn hữu cơ cho đất, tăng khả năng hoạt động của hệ vi sinh vật đất, tăng độ
phì làm cho đất giữ phân, nước, không khí tốt hơn.
+ Sử dụng phân bón hữu cơ sinh học và các
chế phẩm sinh học Compost Marke (men ủ) bón vào đất làm tăng khả năng phân giải
lân khó tiêu, xenllulo và vi sinh vật cố định nitơ trong đất.
+ Kết hợp hài hoà giữa phân bón hữu cơ
sinh học và phân bón hoá học, hạn chế sự lãng phí phân bón hoá học rửa trôi, tăng
độ mùn cho đất, giữ độ ẩm và chống được sâu bệnh, giảm ô nhiễm môi trường. Dùng
phân hữu cơ sinh học còn góp phần không làm dư hoá chất, các kim loại nặng
trong nông sản
Như vậy,
chiến lược an toàn dinh dưỡng cho cây và đất trồng là sử dụng cân đối phân bón hoá học và phân bón
hữu cơ sinh học, các chế phẩm vi sinh vật (Compost Marke) cho cây trồng. Trong đó
phân bón sinh học có vai trò vô cùng quan trọng, không chỉ cung cấp dinh dưỡng
cần thiết cho cây mà còn duy trì độ phì nhiêu của đất trong quá trình canh tác.
Nhằm tạo điều kiện cho nhân dân có nhiều lựa chọn trong sản xuất nông
nghiệp Sáng ngày 8 tháng 8 năm 2024 Hội nông dân xã phối hợp với UBND xã triển
khai tập huấn cho các hội viên và bà con nhân dân và xin giới thiệu phương pháp
sản xuất phân bón hữu cơ vi sinh để các hội viên và nhân dân thảo khảo để tổ chức thực hiện.
Bước 1. Chuẩn bị nguyên liệu:
+ Phế thải có nguồn gốc từ sinh hoạt:
được thu gom và phân loại trước khi đưa vào ủ. Chọn phế thải có nguồn gốc hữu
cơ dễ phân huỷ, các phế thải khác như: túi nilon, cành cây,... phải được loại
bỏ.
+ Phế thải có nguồn gốc từ cây xanh: Các
loại rác lá, rơm, rạ, ngô, lạc, cây phân xanh, chè, vải, các loại cỏ (trừ cỏ
gấu, cỏ tranh)...các loại vỏ như vỏ trấu, vỏ cà phê, vỏ lạc...
+ Phế thải có nguồn gốc từ động vật: Phân
gia súc (trâu, bò, lợn, dê....), gia cầm (gà, vịt, ngan...).
+ Chế phẩm sinh học Compost Maker.
+ Nguyên liệu bổ sung: Đam, lân, kali,
vôi bột, rỉ đường....
*
Nguyên vật liệu (để ủ cho 1 tấn):
- Thành phần nguyên liệu chính:
Nguyên liệu
|
Khối lượng (kg)
|
+
Phế thải chất hữu cơ sinh hoạt, phế thải nông nghiệp: rác, cây phân xanh, rơm,
rạ, thân lá cây ngô, đậu, vỏ lạc,....
|
700
|
+
Phân chuồng (trâu, bò, lợn, gà,...)
|
300
|
- Nguyên liệu bổ sung:
Nguyên liệu
|
Khối lượng
|
+
Chế phẩm sinh học
Compost Maker
|
2
kg
|
+
Rỉ mật (hoặc mật mía)
|
3-5
kg
|
+
Ure
|
2
kg
|
+
Kali
|
3
kg
|
+
Supe lân
|
5
kg
|
+
Vôi bột
|
5
– 7 kg
|
+
Nước sạch
|
33
– 45 lít
|
- Vật tư, dụng cụ: Cuốc, xẻng, dao, bình
tưới, nilon, bạt, bao tải.
Bước 2:
Xử lý nguyên liệu:
- Nguyên liệu từ phế thải chất hữu cơ
sinh hoạt, phế thải nông nghiệp được chặt nhỏ bằng dao, kích thước càng nhỏ
càng tốt.
- Đối với rơm, rạ, rác lá khô nên chặt
ngắn rồi tưới ẩm hoặc xử lý bằng nước vôi trước khi ủ từ 3 - 5 ngày.
- Đối với cây phân xanh, cây ngô, đậu các loại, bèo
tây (bèo Nhật Bản), bèo cái,... thì nên chặt ngắn khoảng 1 gang tay và phải phơi
héo trước khi ủ.
Bước 3: Hoà dung dịch Vi sinh vật:
- Trộn đều các thành phần gồm: Rỉ mật,
men vi sinh vật, đạm urê, kali vào thùng chứa, trộn theo thứ tự sau: Cho rỉ mật,
urê và kali vào nước, trộn sao cho tan hết lượng urê, kali và rỉ mật, sau đó
cho chế phẩm vi sinh vật vào trộn đều tạo ra hỗn hợp vi sinh vật và dinh dưỡng
trong thùng chứa để chuẩn bị tưới lên đống nguyên liệu.
Bước 4: Phối trộn nguyên liệu và dung
dịch vi sinh vật.
- Đống nguyên liệu được dàn mỏng, rắc vôi
bột và supe lân. Rồi dùng cuốc đảo để chúng trộn đều vào nhau. Tiếp đó tưới
dịch vi sinh vật đã hoà ở trên vào đống nguyên liệu và đảo đều.
- Cách tiến hành: Sẽ được thực hành trực
tiếp.
Bước 5:
Ủ đống
- Chọn
vị trí ủ: Vị trí ủ
phải cao ráo, không bị ngập nước vào mùa mưa. Tốt nhất là vị trí có mái che để
mưa không thấm vào. Các nguyên liệu trên sau khi đã phối trộn đều được chuyển
vào vị trí ủ.
- Cách tiến hành: Nguyên liệu sau khi xử
lý, xới tơi, dùng cào, cuốc, xẻng trộn đều sau đó vun thành đống. Yêu cầu chiều
cao đống ủ khoảng 1m, rộng khoảng 2m và chiều dài thích hợp. Sau đó sử dụng
nilông, bao tải hoặc bạt che lên bề mặt đống ủ. Vào mùa đông, cần che đậy kỹ để
nhiệt độ đống ủ được duy trì ở mức 400 C – 500 C (theo sơ
đồ quy trình sau).
Bước 6: Đảo trộn và bảo quản:
Sau khi ủ vài ngày nhiệt độ đống ủ tăng
lên cao khoảng 40 – 500C. Nhiệt độ này sẽ làm cho nguyên liệu bị khô
và không khí cần cho vi sinh vật hoạt động cũng ít dần. Vì vậy, sau khoảng 18 –
20 ngày tiến hành kiểm tra, đảo trộn đống ủ, nếu nguyên liệu khô thì bổ sung nước
đến khi nguyên liệu đạt độ ẩm 45 – 50%. Sau đó ủ tiếp 10 – 15 ngày nữa quả
trình ủ hoàn thành. Có thể sử dụng ngay cho sản xuất.
Nguồn: Hội nông dân Thanh Tiên.